Phong cách chơi swing trong Piano Jazz
- Thái Nguyễn
- Jul 23, 2020
- 5 min read
Swing là kỷ nguyên của những dàn nhạc lớn, dàn nhạc Bigband vào thập niên 1930. Những cái tên như: Benny Goodman, Lionel Hampton, Duke Ellington, Count Basie, Glenn Gray, Glenn Miller, Jimmy Lunceford…đã trở thành huyền thoại, mà tiếng vang vọng như sóng cuộn vẫn còn đến ngày nay.
Những năm đầu thập kỷ 30, sự suy thoái kinh tế đã xảy ra trên toàn thế giới. Thành phố duy nhất dường như thoát khỏi thời kỳ đại suy thoái là Kansas city. Những điệu Swing “đong đưa”,“buông thả” trở nên quyến rũ trong những quán bar, câu lạc bộ… Kansas đã thu hút các nghệ sỹ nhạc Jazz nói chung, Piano Jazz nói riêng về đây kiếm sống, vì thế chẳng bao lâu nhạc Jazz đã lan tỏa đến các thành phố lớn của nước Mỹ như: Chicago, New York…Các ban nhạc nhỏ ở thời kỳ này có xu hướng sát nhập để trở thành dàn nhạc lớn, những nghệ sỹ Piano Jazz ngoài việc biểu diễn độc tấu còn có xu hướng trở thành nhạc trưởng, sáng tác, phối khí, biểu diễn trong các dàn nhạc Big Band, điều này đã tác động đến sự phát triển của Jazz mang tính chuyên nghiệp hơn. Các tác phẩm Jazz đã được ghi chép thành tổng phổ cho từng bè của dàn nhạc. Sự ngẫu hứng đồng loạt “bè tòng” đã nhường chỗ cho ngẫu hứng Solo trên cấu trúc tác phẩm. Thông qua những chương trình biểu diễn thành công của các Swing Big Band, dưới sự lãnh đạo của Duke Ellington, Count Basie, Benny Goodman… Nhạc Jazz đã vươn tới những hình thức biểu diễn quy mô lớn như dàn nhạc giao hưởng. Sự suy thoái kinh tế đã khiến Radio trở thành phương tiện hầu như duy nhất giữ vai trò của trung tâm giải trí, công chúng đành thoả mãn, đam mê âm nhạc bằng cách nhún nhảy, khiêu vũ theo những điệu Swing, là phong cách của Jazz phổ biến nhất thập niên 1930 – 1940.
Qua nghiên cứu, chúng tôi còn nhận ra rằng phong cách Swing còn được thể hiện qua các combo nhỏ như: Trio, Quartet, Quintet, Sextet… của các nghệ sỹ, ban nhạc tiêu biểu: Fats Waller, Stuff Smith, Benny Goodman, Art Tatum, Teddy Wilson, Nat ‘King’ Cole… Nghệ thuật Piano jazz trong thời kỳ Swing tiếp tục được phát triển, nó mang trong mình những kỹ thuật điệu luyện của Ragtime – Stride và Blues, cũng như nó đã góp phần tạo ra diện mạo mới cho nghệ thuật nhạc Jazz. Ngoài tiết tấu Swing nhịp 2/4 được chuyển thành 4/4, sự chia nhỏ và xuất hiện của tiết tấu chùm 3 nốt đơn trong một phách. Điều này tạo ra cho các nhạc cụ diễn tấu, các giai điệu một cách “nhẹ nhàng”, “đong đưa”, “nhún nhảy” theo đúng như tên gọi của mình “Swing”. Những đặc điểm của nghệ thuật Piano Jazz tiêu biểu trong phong cách này bao gồm:
Bè tay trái chơi quãng 10 với hình thức đi bộ “Walking”, được ảnh hưởng từ các nghệ sỹ phong cách Stride, cách chơi này tạo ra sự liền mạch, uyển chuyển bổ trợ cho tuyến giai điệu. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng của Swing và là nền tảng cho cách chơi trên đàn Double Bass trong phong cách Swing.
Ví dụ 1-36: Walking bè Bass quãng 10 trên đàn Piano

Đặc biệt trong phong cách Swing tay trái không chỉ làm nhiệm vụ giữ nhịp và hòa âm so với các thời kỳ trước mà còn góp phần tạo tuyến giai điệu mới độc lập, đối đáp với bè tay phải.
Ngoài ra, kỹ thuật diễn tấu của nghệ thuật Piano trong phong cách Swing được phát triển với một thuật ngữ được gọi là hợp âm khối “block chord” hay còn được biết tới với tên gọi là khóa tay “locked hand”. Ví dụ 1-37: Bè tay trái tạo giai điệu đối đáp với bè tay phải, tác phẩm All the things you are7 sáng tác bởi J.Kern, trình diễn phong cách Swing bởi nghệ sỹ Art Tatum, nhịp 37-38 (Tp14, phl 1.1, tr.215)

Ví dụ 1-38: Kỹ thuật khóa tay của Art Tamtum, tác phẩm All the things you are, trình diễn phong cách Swing bởi nghệ sỹ Art Tatum, nhịp 35-36

Hòa âm từ phong cách Swing cũng được phát triển một cách hoàn thiện và phức tạp hơn, hầu hết các hợp âm 7 được sử dụng và thêm những nốt 2 = 9, 4 = 11, 5, 6 =13 nguyên vị cũng như có biến đổi, sử dụng hòa âm thay thế, để tạo màu sắc. Hơn nữa, là sự xuất hiện của hợp âm biến đổi “Altered” trong những tiến trình hòa âm như: II-V, V-I, II-V-I, I-VI-II-V, III-VI-II-V, I-II-III-IV, I-IV-I-V, I-VII… và áp dụng trong sự dịch chuyển của vòng tròn bậc V (I-IV-VII-III-VI-II-V-I).
Ví dụ 1-39: Hợp âm được ký hiệu C7Alt là sự biến đổi giữa nốt 5 và 9 (5b = 4#= 11#; 5# = 6b; 9b,9#) có thể kết hợp giữa nốt 5 và 9 , C7#5#9 , C7 b5#9, C7#5b9, C7b5b9 …
Đặc biệt về hòa âm của Jazz nói chung, Piano Jazz nói riêng từ thời kỳ Swing đã tạo ra hình thức “Rhythm changes”. Thuật ngữ “Rhymth changes” được xuất phát từ tác phẩm I Got Rhythm của tác giả George Gershwin năm 1930 (Tp15, phl 1.1, tr.232). Các tác phẩm Rhythm changes thường có đặc điểm với hình thức trong 32 nhịp, với cấu trúc AABA, các tiến trình hợp âm có thể được biến đổi.
Theo Tiến sỹ Mark Watkins: “…Rhythm changes là một cách dùng phổ biến trong nhạc Jazz, nó còn là việc viết giai điệu mới trên một tác phẩm âm nhạc với những tiến trình hợp âm đã được tồn tại. Lý do chính bởi tiến trình hòa âm không thể đem đi đăng ký bản quyền, vì vậy các nghệ sỹ Jazz đã thường sử dụng cách này để tạo nên tác phẩm mới cũng như ngẫu hứng trên những tiến trình hòa âm mà họ yêu thích… Một trong những ưu thế của việc sử dụng Rhythm changes là tính linh hoạt, tương tự như hình thức Blues và có nhiều khả năng mở rộng, thay thế về hòa âm…”
Ví dụ 1-40: Hoà âm thay thế tiêu biểu trong 4 nhịp đầu của I Got Rhythm.
Hệ thống thang âm từ phong cách Swing cũng được phát triển một cách hoàn thiện. Ngoài các thang âm trong hệ thống Diatonic trưởng, thứ giai điệu, Chromatic còn có thang âm Blues, thang âm giảm “Diminished”, thang âm toàn cung “Whole tone”, thang âm ngũ cung “Pentatonic scales”…

Nghệ thuật Piano từ phong cách Swing cũng đã được hoàn thiện trong cách chơi độc tấu (có nốt bass), cách chơi ngẫu hứng với ban nhạc, dàn nhạc (không có nốt bass), cách đệm cho bè giai điệu hoặc với dàn nhạc, ban nhạc được chúng tôi nghiên cứu tổng kết ở ví dụ sau: Ví dụ 1-41: Sử dụng thang âm Pentatonic trong tuyến giai điệu ngẫu hứng

Ví dụ 1-42:
Chơi trong dàn nhạc, ban nhạc (bỏ nốt bass)

Chơi độc tấu trong phong cách Swing

Chơi đệm trong phong cách Swing

Đã nói đến Jazz người ta không thể không nhắc tới Swing, là một phong cách giúp nghệ thuật Jazz nói chung, Piano Jazz nói riêng được trở nên phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Swing là chuẩn mực, là linh hồn của nghệ thuật Jazz cũng như trong công tác đào tạo và biểu diễn Jazz và Piano Jazz trong thế kỷ XX. Danh từ “Swing” đã vượt qua khỏi ranh giới phong cách của chính mình, nó còn có ý nghĩa đại diện cho trình độ của mỗi nghệ sỹ Jazz (có swing hay không), cũng như nghệ thuật trình diễn trong tất cả các phong cách sau này của Jazz. Đặc biệt tất cả những nhân tố trong Swing đã giúp cho Bebop trở thành cuộc cách mạng nghệ thuật của Jazz.
Theo Nguyễn Tiến Mạnh- NGHỆ THUẬT PIANO JAZZ CHUYÊN NGHIỆP VIỆT NAM



Comments