Theo Từ điển Bách khoa Britannica, cao độ trong âm nhạc được hiểu là “vị trí của một âm thanh đơn lẻ trong toàn bộ âm vực của âm thanh; tính chất này biến đổi với số rung động trong mỗi giây (tính bằng hec, Hz) của bộ phận phát âm thanh của đàn”. Trong cuốn Lý thuyết âm nhạc cơ bản, cao độ được hiểu là “độ cao của âm thanh, phụ thuộc vào tần số (tốc độ) dao động của vật thể rung. Dao động càng nhiều, âm thanh càng cao và ngược lại”. Như vậy cùng với trường độ, cường độ, âm sắc,… cao độ là một trong những thuộc tính của âm thanh có tính nhạc.


Về vấn đề này, “âm thanh” là tần số những sóng âm được tạo ra bởi sự dao động của một vật. Các dao động này tạo ra những vùng nén và những vùng dãn luân phiên nhau trong các hạt của môi trường. Tần số dao động càng lớn thì âm thanh càng “cao” và ngược lại. Như vậy, cao độ là số lần nén (hay lần dãn) mà sóng âm đi qua một điểm cố định trong một đơn vị thời gian, hay có thể hiểu cao độ là một đặc tính của tri giác cho phép người ta có thể sắp xếp những âm thanh khác nhau thành một chuỗi những âm có mối tương quan với nhau về tần số dao động. Khi nói về âm chuẩn (cao độ) trong hoạt động âm nhạc là nói tới mối tương quan về cao độ giữa các bậc âm trong hệ thống hàng âm, với một âm được lấy làm chuẩn, làm mốc. Theo đó, khái niệm âm chuẩn (cao độ) bao gồm hai nghĩa. Ở nghĩa rộng, âm chuẩn (cao độ) liên quan đến cao độ, trường độ, cường độ, âm sắc của âm thanh. Theo nghĩa hẹp thì chỉ là cao độ của âm thanh. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm âm chuẩn (cao độ) theo nghĩa hẹp.
Trong trình diễn và cảm thụ âm nhạc thì âm chuẩn (cao độ) là thành tố quan trọng hàng đầu, và chúng có những tiêu chí mang tính quốc tế, những qui ước có tính khoa học, trên cơ sở chính xác vật lý. Đồng thời, cao độ còn thể hiện những thị hiếu thẩm mỹ riêng, mà ở đó phản ánh các đặc điểm về truyền thống văn hoá rất sinh động, đa dạng cũng như những đặc thù về tâm sinh lý của một dân tộc. Đối với người Việt Nam, âm chuẩn chịu tác động bởi nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Tính phong phú và đa dạng trong âm điệu và tiết tấu âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam đã tạo nên bản sắc âm nhạc Việt Nam. Việc sử dụng âm chuẩn một cách tinh tế trong hệ thống điệu thức thang âm dân tộc đã tạo nên những sắc thái riêng trong việc thưởng thức các tác phẩm âm nhạc Việt Nam hiện đại.
Lịch sử phát triển âm nhạc của nhân loại, kể từ khi con người xây dựng được những quy ước khoa học xác định được mối tương quan về độ cao giữa các bậc âm thì vấn đề xác định âm chuẩn, trải qua nhiều thế kỷ, vẫn chỉ là lịch sử lâu dài của những quy ước và những khái niệm tương đối. Đôi khi, cả những quy ước cũng vẫn phải thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, theo từng thời kỳ trị vì của mỗi triều đại cầm quyền, của người trị vì,… Phải đến giữa thế kỷ 19 trở lại đây, khoa học, kỹ thuật và công nghệ chiếm lĩnh ngày càng rộng rãi và có được vai trò trọng yếu dẫn dắt đời sống âm nhạc toàn cầu của nền âm nhạc bác học chính quy, giao hưởng – thính phòng Châu Âu,… thì nhu cầu về giao lưu, trao đổi trên nhiều lĩnh vực hoạt động âm nhạc: đào tạo, sáng tác, biểu diễn,… ngày càng đạt tới trình độ điêu luyện, tinh xảo và hoàn thiện như Violon, Piano, các loại Kèn hơi,… Do đó, nhu cầu xác định một âm làm âm chuẩn, cần có một căn cứ làm tiêu chí bậc âm để xác định cao độ cho hàng âm đối với tất cả các nhạc cụ,… đã được đặt ra một cách cấp bách và hết sức cần thiết.
Sau hàng thế kỷ mày mò tìm cách giải quyết, tại Hội nghị của một số nước Châu Âu họp tại Luân Đôn năm 1949, đã quyết định lấy nốt La quãng tám giữa (tức La1 hệ thống Đức, La3 hệ thống Pháp, La4 hệ thống Mỹ), có tần số 440Hz, sau đó, thoả thuận này được khẳng định lại một lần nữa vào năm 1953.
Như vậy, khái niệm âm chuẩn là một quy ước về cao độ của một bậc âm có tần số dao động là 440 lần trong một giây. Để đo được âm chuẩn, người ta đã chế tạo ra một thanh sắt chữ U có tên gọi là “thanh mẫu – diapason”, khi gõ lên, âm thanh do thanh mẫu phát ra có cao độ đúng bằng nốt La với tần số 440Hz. Từ âm thanh tiêu chuẩn các nhà chế tạo, sản xuất nhạc cụ, các nhạc sỹ, các nhạc công sẽ dễ dàng xác định cao độ của các bậc âm khác trên cả hàng âm của các nhạc cụ (piano, các loại kèn hơi…) cũng như âm vực cho mỗi tác phẩm âm nhạc một cách thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận rằng âm chuẩn là một quy ước có ý nghĩa như một tiêu chuẩn mang tính phổ biến trên phạm vi quốc tế, có tính chuẩn xác về cao độ của một bậc âm được lựa chọn, cũng như hội tụ đầy đủ tính khoa học, sự chính xác của quy luật vật lý và âm thanh học,… nhưng cũng không phải vì thế mà nó hoàn toàn không bị chi phối bởi các yếu tố khác như: truyền thống văn hóa, đời sống kinh tế, trình độ phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ,… bởi những yếu tố này đã đặt dấu ấn không nhỏ lên tư duy thẩm mỹ cũng như nhu cầu cảm thụ nghệ thuật, trong đó có âm nhạc của con người. Chính điều này đã tạo nên sự thưởng thức, trình diễn thay đổi tần số dao động của nốt La1 – âm chuẩn trong thế kỷ XX như sau:
– Những năm 40 = 434 Hz;
– Những năm 60 = 436 Hz;
– Những năm 80 = 438 – 440 Hz;
– Những năm 90 = 442 – thậm chí 443 Hz.

Như vậy, có thể thấy: cùng với tiến trình lịch sử, nốt La1 cũng có xu hướng phát triển cao hơn. Ngoài những yếu tố như đã phân tích ở trên, điều này đã và đang tác động đến cả lĩnh vực sản xuất, chế tác các nhạc cụ như đàn dây, Kèn hơi, Gõ, Piano ….
Mặt khác, có thể thấy rằng: âm chuẩn (cao độ) theo hàng âm bình quân Châu Âu cũng chỉ nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hoạt động âm nhạc trên các lĩnh vực mang tính toàn cầu. Chúng ta vẫn phải tiếp tục khách quan thừa nhận và chấp nhận những thay đổi tất yếu đối với tần số dao động của âm chuẩn qua mỗi thời kỳ, chấp nhận của những đúng sai không chỉ đối với các yếu tố thuần tuý cơ học mà còn có cả yếu tố thẩm âm của mỗi con người cụ thể, thậm chí của một cộng đồng cụ thể. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền âm nhạc của cộng đồng mình, của dân tộc mình, của quốc gia mình, chúng ta sẽ tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện nhằm từng bước nắm bắt và đuổi kịp các tiêu chí chính quy, hàn lâm, bác học mà một nền âm nhạc chuyên nghiệp đặt ra và đòi hỏi, không chỉ đối với thể loại âm nhạc giao hưởng – thính phòng hàn lâm viện Châu Âu mà còn đối với cả dòng âm nhạc dân gian truyền thống của dân tộc.
Commenti